Tuesday, September 4, 2018

THIÊN THẦN BẢN MỆNH...


Thiên Thần Bản Mệnh
Sự Quan Phòng Của Thiên Chúa


Cái nắng hanh hao của xứ biển Esmeral-das, phía bắc nước Ecuador làm tôi chợt thèm cái cảm giác mát lạnh run người của vùng rẻo cao chót vót, ngút ngàn sương mù và những con đường đất đỏ uốn lượn theo sườn núi hun hút xa tít không một bóng người của vùng truyền giáo Ludo thuộc tỉnh Azuay ở miền nam, nơi tôi đã bắt đầu cuộc hành trình truyền giáo, sống và chia sẻ đức tin với bà con dân tộc thiểu số trên đất nước xích đạo Ecuador này. Những kinh nghiệm đầu tiên trên một đất nước hoàn toàn xa lạ thường là những kinh nghiệm rất thú vị và không ít những thách đố ví như những trải nghiệm hết sức cần thiết cho một tu sĩ truyền giáo trẻ. Ba năm mục vụ nơi giáo xứ dân tộc thiểu số nghèo miền núi Ludo đã giúp tôi tự lập, tự tin và can đảm dấn thân hơn, đặc biệt là nhận ra sự quan phòng của Thiên Chúa qua hình ảnh Thiên Thần Hộ Thủ trong những tình huống ngặt nghèo nhất của hành trình truyền giáo.

Tôi đã được sai đến vùng núi cao Ludo với hành trang vỏn vẹn có 6 tháng học ngôn ngữ Tây Ban Nha và một khao khát muốn khám phá những điều mới mẻ sẽ xảy ra với mình trong những ngày tháng năm sắp tới. Ngồi trên cái xe Chevrolet Vitara hai cửa đã hơn mười năm tuổi đời chạy như ngựa phi băng qua ngọn núi cao vút, rồi thả dốc xuống những thung lũng sâu hun hút, tôi nghĩ dại: nếu lỡ xe đứt thắng hay rơi bánh ra thì mình sẽ ra sao? Sau hai giờ đồng hồ chạy xồng xộc trên những con đường đất đá, hốc hang lẫn lộn, cuối cùng một cha người Balan cùng dòng Ngôi Lời đã chở tôi về tới giáo xứ Ludo. Thiết nghĩ, tôi sẽ ở đây và sẽ học hỏi công việc mục vụ với cha người Balan này lâu dài. Nhưng không ngờ, mới được một tháng, vì lý do cá nhân, cha phải đi tới một giáo xứ khác. Nhà dòng gửi bài sai cho một cha già người Tây Ban Nha đang bị bệnh chờ ngày phẫu thuật sẽ đến giúp tôi. Nhưng ít nhất cũng phải mất nửa năm, vị cha già này mới khôi phục hoàn toàn để leo núi tới vùng truyền giáo này. Cuối cùng, tôi là người duy nhất trụ lại nơi đây, với hai giáo xứ cách nhau một tiếng đồng hồ chạy xe và ba mươi giáo điểm nằm rải rác trên các ngọn đồi hay dưới những thung lũng. Cũng may, trong tháng vừa qua tôi đã ra thành phố để học lấy bằng lái xe số tay, chuẩn bị cho những ngày tháng cùng với “con ngựa sắt” này leo núi tới những bản xa.

Những đêm đầu ngủ một mình trong nhà xứ, tôi có cảm giác ớn lạnh. Giáo xứ có khoảng sáu ngàn giáo dân, nhưng thật ra chỉ có ba gia đình sống gần nhà thờ. Tất cả bà con thiểu số sống trên những giáo điểm xa xôi. Nhà thờ Ludo đứng chênh vênh trên vách núi; phía dưới là thung lũng sâu. Đêm về yên tĩnh không một tiếng ồn; có chăng là những làn gió rít qua những tán thông vi vu rồi ùa vào trong nhà nghe lạnh buốt. Bên ngoài là một vài ánh đèn leo lét, nhìn xa xa trên những chỏm núi là những vệt sáng nhỏ như con đom đóm, nơi bản làng của giáo dân. Tôi nghĩ thầm trong đầu: “Biết ra sao ngày mai?” Ngày mai rồi cũng đến với nhiều cơ hội học hỏi và những khó khăn không lường cho một nhà truyền giáo trẻ, chưa hề có kinh nghiệm quản xứ và cũng mới bập bẹ tiếng Tây Ban Nha từ trong sách vở, trường lớp hơn là va chạm thực tế. Cũng may là giáo dân người bản xứ siêng năng và có tinh thần cộng tác. Mặc dù đường xá xa xôi, nhưng họ lặn lội tới tìm cha, rồi cộng tác với cha trong việc giảng dạy giáo lý cho các em, tổ chức họp hành hội đồng giáo xứ, lãnh trách nhiệm trong các chương trình huấn luyện giáo lý viên và tông đồ giáo dân, mặc dù họ phải đi hàng giờ để đến những giáo hạt và địa phận lân cận.

Mục tiêu quan trọng nhất cho một tu sĩ truyền giáo trẻ, chân ướt chân ráo lúc bấy giờ là chu toàn nhu cầu mục vụ bí tích cho giáo dân. Chỉ cần mỗi tháng một cộng đoàn kêu cha một lần thôi, thì ngày nào Cha cũng lôi “con ngựa sắt trành” ra leo núi rồi. Đó là chưa kể Lễ Bổn Mạng, các Lễ Đức Mẹ, và nhiều nghi thức truyền thống văn hoá khác. Vì chưa rành đường xá trên núi, mưa thì lầy lội, nắng thì bụi bặm mù trời, rất nhiều khúc quanh co lên xuống chỉ cần nhìn thôi cũng đủ ớn người, cho nên những suy nghĩ về rủi ro tai nạn, hư xe dọc đường, hay xe yếu không lên được dốc cao lúc trời mưa luôn ám ảnh trong đầu mỗi khi tôi leo lên xe rời nhà xứ. Tuy nhiên, tôi luôn có những niềm vui nho nhỏ là được làm lễ cho giáo dân xa xôi, được ăn những món ăn truyền thống của họ như chuột tàu nướng than, bắp luộc, đậu habas, phô-mai từ sữa bò, được uống Chicha - một loại nước uống lên men làm từ bắp - và rất nhiều rau quả miền sơn cước họ dùng làm quà biếu cha.

Đặc biệt hơn là được giao tiếp hàng ngày với giáo dân bằng ngôn ngữ Tây Ban Nha, một cơ hội lớn lao để tôi có thể hiểu họ và giúp tôi vượt qua rào cản về ngôn ngữ. Thú thật, những ngày đầu ở giáo xứ, tôi không hiểu họ nói gì cả mặc dù đã hoàn thành hai khoá học ngôn ngữ tại một đại học Công Giáo ở thủ đô Quito. Điều này làm tôi hoang mang, lo lắng, không biết khả năng nghe của mình quá kém hay tại họ nói quá nhanh. Cuối cùng thì tôi cũng nhận ra rằng, người bản xứ miền núi có một giọng nói rất đặc trưng, khác với tiếng Tây Ban Nha chính thức mà tôi được học ở trường. Giọng họ nói lên xuống véo von như chim hót, và còn pha thêm ngôn ngữ bản xứ Ki-chua của họ nữa. Cho nên sau này, tôi cố gắng nghe họ thật kỹ và bắt được chất giọng của họ. Có lúc các cha bạn nói đùa với nhau là Cha Nhiên dạo này nói tiếng Tây Ban Nha véo von như chim hót. Nghe hơi buồn cười, nhưng tôi cảm thấy mừng trong lòng, vì thời gian qua tôi sống với họ, làm việc với họ, chia sẻ đời sống đức tin với họ, được nuôi dưỡng bởi thức ăn nước uống của họ, và được hoà mình vào trong bầu không khí và cuộc sống của họ; tôi đã hòa nhập phần nào vào văn hoá của người dân bản xứ nơi đây.

Có lẽ, lối sống đơn sơ, chân chất vốn có của người bản xứ đã tạo cho tôi sự tự tin cần thiết, giúp tôi vượt qua những non nớt, yếu kém ban đầu. Họ không chỉ trích, phê phán hay chê bai khả năng ngôn ngữ của tôi, nhưng lắng nghe với sự tôn trọng. Đôi lúc cha nói sai một vài từ trên bục giảng, họ nhẹ nhàng nhắc khéo cha sau Thánh Lễ. Thế đấy, một sự khởi đầu tưởng chừng như quá nặng nề đối với một nhà truyền giáo trẻ, giống như trường hợp “đem con bỏ chợ,” lại trở nên nhẹ nhàng, dễ thở nhờ vào sự cộng tác hết sức chân thành và hiền hoà của giáo dân. Qua đấy, tôi nhận ra được sự đồng hành và quan phòng của Thiên Chúa trên mỗi bước đường truyền giáo.

Có nhiều lúc, tôi cảm nghiệm sự quan phòng của Thiên Chúa như hình ảnh Thiên Thần Bản Mệnh xuất hiện đúng lúc để đồng hành với tôi vượt qua những thử thách hết sức cam go. Một ngày trời mưa kéo dài, tôi lái xe đi làm Lễ Bổn Mạng Đức Maria nơi một giáo điểm xa cách nhà xứ gần hai giờ chạy xe. Giáo điểm nhỏ nằm lọt dưới một thung lũng, được nối với một con đường đất ngoằn ngoèo chỉ lớn hơn một làn xe, một bên là núivà bên kia là vực sâu. Sau Thánh Lễ, tôi được giáo dân mời ăn tối. Khoảng 9 giờ đêm, tôi bắt đầu lái xe trở về. Trời tối như mực lại còn mưa tầm tã khiến con đường càng thêm lầy lội. Đi được hơn nửa giờ đồng hồ, tôi thấy phía trước là một đống đất đá do núi sạt lở xuống, nên con đường chỉ còn lại một lối nhỏ mà tôi áng chừng cái Chevrolet Vitara có thể đi qua được. Tôi quyết định lái xe qua. Vừa tới đống đất, chiếc xe bỗng sụp xuống và nghiêng về phía vực sâu tối om. Càng rịn ga thì xe càng lún và nghiêng xuống hố. Tôi nhận ra đất sình trên núi đã phủ qua con đường, và hai bánh xe bên phải thật ra không bám trên đường mà mắc kẹt dưới lớp đất lầy. Tôi đành mở cửa hông bên kia và chui ra khỏi xe. Trời vẫn tối mịt một màu đen ngòm, mưa vẫn rơi ào ạt, và cái Chevrolet Vitara đang lún xuống, chỉ chực ngả ra khỏi con đường và rơi xuống vực thẳm. Tôi thật sự không biết làm gì trong tình huống này, ngoài việc lẩm nhẩm mấy câu kinh bỏ túi.

Đường vắng không có người qua lại, cũng không có ai ở gần để kêu cứu, và điện thoại thì cũng không có sóng để mà gọi. Bất thình lình, một người đàn ông cầm đèn pin từ trên núi đi xuống chỗ tôi. Tôi mừng như mở cờ trong bụng. Người đàn ông gọi cha xưng con tỉnh bơ, nhưng tôi chỉ thấy quen quen chứ không biết chính xác là ai. Ông nói sẽ đi bộ ra giáo điểm cách đây nửa tiếng để gọi xe tới kéo xe tôi lên. Giờ thì chỉ có cách là đứng chờ, nhìn xe đang lún, và lại lẩm nhẩm vài câu kinh. May thay, trong vòng ba mươi phút, một người giáo dân quen chạy xe tới để giúp kéo xe tôi lên. Tôi hỏi người đàn ông kia đâu; anh giáo dân nói ông đi rồi vàcũng không biết ông là ai. Cuối cùng, chiếc xe của tôi cũng được kéo lên khỏi đống sình lầy. Trên suốt chặng đường về nhà, tôi tự hỏi người đàn ông trên núi là ai. Tôi sực nhớ ra cách đây khoảng 6 tháng, cái xe của tôi bị chết máy giữa đường trên sườn núi không nhà và không người qua lại. Tôi loay hoay mãi tới mười giờ đêm mà cũng không biết làm cách nào cho xe nổ máy để đi về nhà. Bất thình lình, một người đàn ông cầm đèn pin đi từ trong núi đi ra. Ông ta chào hỏi tôi rồi đụng chạm vào một vài nơi của chiếc xe. Trong chốc lát, tôi đề máy nổ bình thường như không có chuyện gì xảy ra. Tôi mừng quá, giúi vào tay ông mười đô la coi như quà cám ơn. Nhưng ông từ chối và nói rằng nếu ông nhận tiền của tôi thì ông sẽ phải đi xưng tội. Thế rồi ông chào tạm biệt, và trong chốc lát bóng ông mất hút vào màn đêm tĩnh mịch giữa núi rừng.

Trong những tình huống như thế, tôi chỉ biết thầm cám ơn những con người chưa từng gặp mặt đã đến đúng lúc để giúp đỡ và đem đến sự an toàn để tôi được trở về nhà bình an. Có thể họ là những con người thật đang sinh sống trên các đỉnh núi ấy, nhưng tôi vẫn luôn tin rằng họ chính là sự quan phòng của Thiên Chúa dành cho tôi trong hành trình truyền giáo này. Tôi đã thật sự được cảm nhận và sống những khoảnh khắc về sự can thiệp của Thiên Chúa trong những tình huống ngặt nghèo qua hình ảnh các Thiên Thần Hộ Thủ mà tôi đã được nghe kể rất nhiều trong thời niên thiếu. Có lẽ, không thể chia sẻ hết những kinh nghiệm truyền giáo trên cao nguyên Ludo, Ecuador, nhưng những khoảng khắc trên đây được coi là những bước ngoặc quan trọng đã tôi luyện một nhà truyền giáo trẻ tính tự lập, sự tự tin, và lòng can đảm chế ngự những yếu kém sợ sệt ban đầu. Qua đây, tôi đã thấy và tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa trên bước đường truyền giáo.

Giờ đây, khi ngồi viết lên những dòng chia sẻ này với quý ông bà và anh chị em là lúc tôi đang làm mục vụ tại vùng biển Esmeraldas giáp ranh với Colombia. Một vùng biên giới được biết là rất nguy hiểm với những tệ nạn cướp bóc, ma túy, và khủng bố Ma a. Tôi vẫn một mình một ngựa trên vùng truyền giáo mới này, nhưng với “con ngựa sắt” khác già hơn, gần hai mươi năm tuổi đời. Xin quý ông bà anh chị em tiếp tục cầu nguyện cho chúng tôi để tất cả những trải nghiệm vui buồn, sướng khổ của cuộc đời truyền giáo là của lễ ca ngợi tình yêu cao vời của Thiên Chúa. Amen.

page6image31656

Thursday, November 10, 2016

Họ Vẫn Sống!

Khi nhỏ, tôi thích ngắm sao trong những đêm bầu trời trong vắt. Không những ngắm thôi mà tôi còn liên tưởng mỗi vì sao là một linh hồn của người đã khuất đang lung linh, hiện hữu, và thật sống động. Trong trí tưởng tượng trẻ con ấy, tôi đã thấy những người thân yêu yên nghỉ trong dòng họ và gia đình mình đang gần gũi bên nhau rất hạnh phúc trong không gian bao la bất tận. 


Thiết nghĩ, trí tưởng tượng ngây ngô ngày đó không xa chút nào với lý tưởng mình đang sống ngày hôm nay. Linh hồn của những người đã khuất về lại bên nhau và tề tựu trong Đấng Hằng Sống. Tất cả đã trở nên Một và sẽ không bao giờ tách rời nhau. Sự gặp gỡ thiêng liêng ấy chính là Thiên Đường, Hạnh Phúc Bất Tận, và Sự Sống Vĩnh Hằng. Ví như các tinh tú hòa quyện tỏa sáng bên nhau trong cái vũ trụ huyền nhiệm. Sẽ không có vì sao nào nằm ngoài vũ trụ ấy, và cũng sẽ không có vũ trụ nào khác nữa. Ví như giọt nước mưa tan vào lòng biển khơi sẽ trở nên một với biển, mang lấy vị mặn mà và màu xanh của biển, được hòa nhịp cùng những đợt sóng nhấp nhô sống động đêm ngày. Giọt nước mưa nhỏ bé ấy đã rơi xuống, nhưng không biến mất mà sống mãi trong lòng đại dương bao la vô ngần. Sự hòa quyện vào lòng biển mênh mông ấy là sự trở về trong bình an và sự bảo bọc chở che vì chính những giọt nước nhỏ bé này đã xuất thân từ lòng mẹ đại dương và đã ra đi với gió với mây trời trong hiểm nguy thăng trầm. Đời người cũng thế, chúng ta đã đến thế gian này từ Đấng đã ban cho chúng ta sự sống. Cuộc đời bảy nổi ba chìm với mọi thử thách gian truân. Sự chết chính là sự trở về trong bình an bởi chúng ta lại được đón nhận vào trong lòng Đấng Yêu Thương một lần nữa. Chúng ta trở nên một trong Tình Yêu và Hạnh Phúc Viên Mãn. 

Đêm nay, bầu trời Ecuador lại trong vắt, tôi nhìn thấy ba, chị, em, ông bà, họ hàng và những người thân thương đang lung linh tỏa sáng trên không trung huyền nhiệm, không phải trong trí tưởng tượng đơn sơ của ngày ấy, nhưng trong Niềm Tin vào Sự Sống Vĩnh Hằng. Không ai trong số họ đã chết, và chắc sẽ không ai chết cả! Họ vẫn đang sống trong tim ta, trong ký ức, và trong mỗi khoảnh khắc cầu nguyện cho họ và suy nghĩ về họ. Thật ra, sự chết chỉ là cánh cửa được mở ra để đón nhận chúng ta vào Sự Sống Mới, Sự Sống Đời Đời. Lời Tin Mừng Phục Sinh vẫn mãi vang vang trong tâm trí như một lời xác tín, Thiên Chúa  “không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống.” (Lc 20, 38)

Sunday, November 30, 2014

VIẾT VỀ CHỊ...



… Nhớ trong tâm cảm một người chị đã rời ghế nhà trường khi tuổi đời chưa thể định đoạt một tương lai, không phải vì mê chơi coi thường sự học, nhưng vì phải gánh gồng cuộc đời với cơm nước, giặt giũ, bán buôn, đồng áng và bốn người em trai nhỏ phía sau. Thầy cô bạn bè rất tiếc một người trò, một người bạn ngoan giỏi phải xa lìa lớp học khi cả một bầu trời cơ hội tuy không rõ ràng trong thời bao cấp, nhưng có lẽ đang đợi chị trước mắt. Mặc dù chưa thể cảm nhận được sự hy sinh của chị, tôi biết rằng tôi đã lớn lên trên đôi vai nhỏ nhắn của chị. Tôi được đến trường, được rong ruổi trong những chuỗi ngày dài với bạn bè và với một ước mơ sáng sủa. Một cơ hội chị đã dành cho tôi!

… Nhớ những năm lên ba lên tư, đêm nằm ngủ chung giường với chị nghe mưa ti tách lộp độp trên mái tôn thủng ngàn sao. Nhớ nhất những đêm tôi đái dầm, ngại ngùng quấn chăn cho mau khô, chị nằm lạnh lùng không chăn. Cũng khá nhiều đêm như thế, chị biết tôi còn quá nhỏ và rất cần sự quan tâm chăm sóc của chị.

… Nhớ những ngày đầu tiên cắp sách đến trường, đánh vần 3 chữ A B C…, chị đã kèm học hàng đêm để tôi theo kịp bạn bè cùng lớp với vốn liếng kiến thức rất khiêm tốn của chị. Chị rất nghiêm khắc nếu tôi không nghiêm túc học hành. Có lần, tôi phải quỳ gối cả giờ đồng hồ vì không thuộc bài cũ. Tôi cố gắng và trưởng thành hơn là nhờ chị!

… Nhớ cái tuổi dậy thì, khi tôi biết mắc cỡ ngại ngùng vì mình đang lớn, đi đứng bẻn lẻn với cái quần tà lỏn lò xo. Ôi thật hạnh phúc, vào một ngày đẹp trời, tôi nhận được một bộ quần lót đủ màu sắc từ chị. Thế đấy, 6 anh em trai, nhưng chỉ có chị là hiểu tâm lý của thằng em đang lớn. Chị dõi theo và nhận ra những nhu cầu thiết yếu của một cậu con trai. Chị biết tôi đã lớn!

… Nhớ cái thời vào Trung Học khi tôi đủ lớn để hiểu ít nhiều về tình yêu đôi lứa, chị coi tôi là một người bạn để tâm sự những cuộc tình đầy hứa hẹn và không ít thách đố. Tôi hiểu nhiều hơn chuyện tình cảm qua những bầu tâm sự của chị. Tôi đọc tiểu thuyết nhiều hơn để giải thích một số tình huống lâm li bi đát trong đời sống hôn nhân… và để tôi được đồng điệu với chị trong lĩnh vực này. Tôi hiểu nhiều về tâm tư của chị!

… Nhớ những mùa hè rời lớp học, chị cùng tôi cơm đùm cơm nắm mỗi sớm mai thức dậy đạp xe năm bảy cây số đi làm công nhân để kiếm thêm chút tiền dành dụm cho tương lai. Chúng tôi làm hùng hục cả ngày từ 5 giờ sáng đến 6 giờ tối. Mệt nhưng vui vì có thêm thu nhập và thêm bạn bè mới. Biết bao nhiêu câu chuyện vui buồn chị em kể cho nhau nghe trong khi làm việc nơi hãng xưởng cũng như trên suốt tuyến đường đi và về tôi đèo chị trên chiếc xe đạp cộc cạch. Chị và tôi đã có rất nhiều thời gian bên nhau!

… Nhớ những ngày tháng xa nhà nơi thành phố để theo đuổi ước mơ, chị cũng bỏ xứ ra đi vì một cuộc tình dang dỡ nơi xưởng làm. Chị em lại gặp nhau nơi chốn đô thành tấp nập bận bịu cả ngày lẫn đêm. Mỗi lần đến thăm chị nơi nhà trọ chật chội cho công nhân, tôi chỉ muốn biết chị đang sống ra sao. Công việc bận bịu có giúp chị quên đi những nỗi buồn thầm kín trong lòng hay chăng? Chị làm như điên cuồng, tôi biết, chỉ để quên đi những quá khứ đau lòng! Thật tội nghiệp thân gái mãnh mai nơi đất khách! Tôi vẫn dõi theo chị!

… Nhớ một ngày nào đó chị đã phải nhập viện cho ca phẫu thuật Thoát Vị Đĩa Đệm, cái Cột Sống gánh gồng quá nhiều thứ đã làm chị quá sức đau đớn, đau đến nỗi chị không thể bước đi quá 50 mét. Tôi đến thăm chị để chia sẻ phần nào nỗi đau đớn ấy. Ca phẫu thuật thành công, nhưng cái đau đớn thân xác gầy gò còn đó vì hết thuốc mê, rồi lại bị sốc thuốc. Cả nhà tưởng là chị đã ra đi trong lần đó. Chị có một nghị lực sống hết sức phi thường! 

… Nhớ cái ngày chị cưới chồng, tôi mừng cho chị vì chị có được một người chồng thương yêu. Chị theo chồng và tôi đi quá xa. Chị em không thường gặp nhau như ngày nào, chỉ thỉnh thoảng qua điện thoại nói chuyện hỏi thăm năm ba câu. Tôi tiếp tục mừng cho chị vì chị có thêm 2 con để xây dựng một gia đình đơn sơ nhỏ bé. Chị đã dệt những ước mơ cho gia đình và con cái!

… Nhớ khoảng thời gian gần đây độ hơn 1 năm, tôi trở về gia đình sau bao nhiêu năm xa cách, cả nhà vui mừng, riêng chị rất vui mừng và hãnh diện vì tôi. Chị lo chạy tới chạy lui để những ngày sum họp sắp tới được tốt đẹp. Tôi biết chị rất mệt để lo việc lễ lạc của tôi. Nhưng chị rất là vui, vui đến nỗi không ngủ được! Bởi vì quán xuyến nhiều việc, nên chị quên chụp một tấm hình với tôi trong ngày Lễ Tạ Ơn. Chị đã giận hờn vu vơ với chồng tại sao không nhắc cho chị để rồi cơ hội vụt qua mất. Chị rất là buồn! Có ai biết được đó là lần cuối chị muốn chụp chung với tôi một tấm hình gia đình để làm kỷ niệm. Tôi đã thỏa mãn ước mơ của chị trong chuyến đi về Trung thăm mồ mả ông bà. Gia đình chị và tôi sau thánh lễ tại Nhà Dòng Nha Trang đã chụp một tấm hình kỷ niệm. Tôi lại tiếp tục lên đường đến một miền đất xa xôi khác!

… Và nhớ lần cuối cùng tôi được nói chuyện với chị qua Skype. Chị không nói gì nhiều, cứ nhìn tôi đăm đắm. Tôi có một cảm giác rất lạ nhưng không dám nghĩ tới hay nói ra với ai. Cái cột sống gánh gồng cuộc sống quá nặng nề lại hành hạ chị với những cơn đau thấu trời xanh không ngớt. Lần này không phải la Thoát Vị Đĩa Đệm nữa mà là Viêm Tủy Cột Sống. Cho tới một ngày gần đây, chị đã từ giã tất cả và ra đi trong niềm thương tiếc lớn lao của gia đình và bạn bè. Tôi chỉ biết dâng Thánh Lễ cầu nguyện cho Linh Hồn chị được nghỉ yên trong Bình An Vĩnh Hằng. Ở nơi ấy, không có đau đớn dày vò thân xác mỏng manh của chị, nhưng đong đầy Niềm Vui và Hạnh Phúc với Đấng đã tặng chị món quà Cuộc Sống.


Wednesday, July 9, 2014

Giới Răn Mến Chúa Yêu Người



Gần đây, tôi đã xem đi xem lại một cuốn phim tài liệu có nhan đề “Đừng Khóc Cho Tôi, Sudan.” (http://vimeo.com/69300535) Đây là một bộ phim hết sức cảm động đã khiến cho biết bao người coi không cầm được nước mắt. Cuốn phim kể về cuộc đời truyền giáo của vị Linh Mục người Hàn Quốc tên là John Lee tại đất nước Nam Sudan. Cha sinh ra và lớn lên trong một gia đình có 10 anh chị em. Bố của ngài đã qua đời khi ngài mới lên 9 tuổi. Cha được nuôi dạy trong vòng tay yêu thương và ân cần của người mẹ rất đảm đang. Mặc dù gia đình cha phải chật vật để kiếm kế sinh nhai, nhưng cha đã học hành hết sức chuyên cần để đạt tiêu chuẩn vào một trường Đại Học Y Khoa tại Nam Hàn.  Cha đã cố gắng để thực hiện giấc mơ của mình là trở thành một bác sĩ, và đó cũng là một hy vọng hết sức lớn lao của người mẹ.
 
Sau ngày ra trường, cha vào phục vụ như một bác sĩ trong quân đội. Tuy nhiên, trong những năm tháng phục vụ ở quân trường, cha đã nhận ra một ơn gọi khác mạnh mẽ và quyết liệt hơn. Đó là trở thành một nhà truyền giáo. Thế là cha đã từ bỏ một tương lại sáng lạng trước mắt, một bác sĩ thuộc tầng lớp khá giả trong xã hội Hàn Quốc lúc bấy giờ để xin gia nhập vào dòng truyền giáo Don Bosco. Một điều bất ngờ hơn nữa là sau khi được thụ phong Linh Mục, cha đã xin nhà dòng đến phục vụ cho người nghèo tại Nam Sudan, thuộc Châu Phi. Tin này đã làm cho người mẹ thân yêu của ngài hết sức ngỡ  ngàng và đau đớn khi chứng kiến con mình phải đi đến một đất nước đầy chiến tranh và bạo động.
 
Cha Lee đã đến và sống giữa những người nghèo nhất trong ngôi làng Tonj. Ngài phục vụ như một bác sĩ  duy nhất khám và chữa bệnh cho biết bao người dân cả ngày lẫn đêm. Ngài đã phục vụ như một người thầy giáo đầy yêu thương và nhiệt huyết,  giảng dạy biết bao điều cho các em thiếu may mắn nơi đây. Ngài sống như một người bạn hết sức gần gủi và thân thương đối với những bệnh nhân phong cùi trong những ngôi làng xa xôi hẻo lánh.  Ngoài việc xin những nguồn tài trợ và thuốc men để chữa lành họ, cha dành tinh thương cho họ cách đặc biệt để họ được chữa lành cả thể xác lẫn tinh thần. Cha còn là một nhạc sĩ đã dạy cho các em biết chơi những nhạc cụ thay vì phải cầm lấy vũ khí để gây chiến tranh và hận thù.  Đội kèn của cha đi trình diễn nhiều nơi để mang thông điệp yêu thương, hòa bình và công lý tới chính quyền miền Bắc và Nam Sudan. Cha đã phục vụ với một tinh thần khiêm nhường và một tình yêu thật lớn lao. Cha là một chứng nhân sống động cho Tình Yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa cho người dân Sudan.
 
Nhưng buồn thay, trong một chuyến trở lại Hàn Quốc để thăm gia đình, cha đi khám bệnh và phát hiện ra mình đang bị bệnh ung thư giai đoạn cuối. Cha rất muốn trở lại để tiếp phụ vụ người dân nghèo trên mảnh đất Sudan cằn cỏi này, nhưng căn bệnh hiểm nghèo đã cướp lấy sinh mạng ngắn ngũi của cha. Người dân Sudan đã nhung nhớ và khóc thương cha đến khô lệ. Cho đến hôm nay họ vẫn chưa tin rằng Cha đã vĩnh viễn ra đi. Nhưng đối với họ, cha vẫn sống mãi trong con tim của mỗi người. 

Câu chuyện thật cảm động về cha Lee là một nhân chứng sống động cho tất cả chúng ta về việc thực thi 2 điều răn qua trọng nhất mà Chúa Giesu đã nói với vị luật sĩ: “Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi”, và “Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi.”  Cha Lee là một bác sĩ thuộc tầng lớp trí thức và có địa vị trong xã hội. Cha có rất nhiều tài năng có thể trở thành một người nỗi tiếng được nhiều người hâm mộ. Cha là một thanh niên trẻ đẹp có thể tìm được một người vợ ngoan hiền để xây dựng một đời sống gia đình hạnh phúc ấm no. Nhưng cha đã không chọn tất cả những Tình-Tài-Tiền đó. Cha đã chọn Chúa để yêu mến Chúa hết tâm hồn, hết trí khôn và sức lực của mình. Cha đã kết hợp mật thiết với Chúa trong đời sống cầu nguyện để dâng hiến một cách trọn vẹn. Cha sử dụng tất cả sự khôn ngoan và tài năng để phục Chúa, để ca ngợi Chúa, và để sống trong tình yêu vô biên của ngài. Cha Lee đã yêu thương người dân Sudan hơn chính bản thân mình nữa. Cha đã rời bỏ gia đình, nếp sống thành thị an nhàn, và những thú vui của một người thanh niên trẻ để đến, sống, và phục vụ cho những con người nghèo đói và đau khổ tột cùng nơi mảnh đất Sudan.  Cha đã sống 2 điều răn này thật trọn vẹn trong cuộc đời truyền giáo của mình. Đối với chúng ta, đây là giới răn vẫn còn  hết sức thách đố bởi vì Nó đòi hỏi một trái tim thật sự khiêm nhu, quảng đại, hy sinh, và đầy lòng yêu thương như Cha Lee vậy!
 
Chúa Giê-su đã dùng 2 giới răn này để nói với những người Luật sĩ là những người có tiếng nói và có địa vị cao trong xã hội Do Thái lúc bấy giờ.  Họ là những người có thể dùng lý lẽ và trí khôn của loài người để vu khống, bắt bớ, và ngăn cản người khác đến với chúa. Họ tự hào là những người có học và biết luật  nhưng thiếu sự khiêm nhường để nhận ra Chúa nơi tha nhân.  Họ đã than phiền Khi Chúa Giê-su ăn uống với người tội lỗi; họ đã lên án Chúa Giê-su là lộng ngôn khi Ngài tha tội cho người khác. Tuy nhiên, Chúa Giê-su không phải lên án tất cả những người Luật Sĩ vì không phải tất cả họ là người xấu. Ngài đã khen tặng một người Luật Sĩ rằng: "Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu". 
 
Trên hết, Chúa Giê-su muốn dạy bảo tất cả những người có địa vị trong xã hội khi họ quá quan tâm đến quyền lợi và danh vọng, khi họ chọn thế gian hơn là chọn Chúa, và khi họ yêu mến thế gian hơn yêu mến Chúa. Hơn thế nữa, Chúa Giê-su đã nhận thấy rằng họ có thể nói trên môi miệng rằng họ yêu mến chúa nhưng đời sống của họ thì đi ngược lại lời nói.  Cho nên, yêu mến tha nhân như chính minh là một hành động cụ thể để biểu hiện lòng yêu mến Chúa một cách sâu sắc.  Chúa Giê-su dạy cho họ một bài học rằng lời nói phải đi đôi thực hành. Nếu ai đó nói tôi yêu mến Chúa hết lòng mà thờ ơ lảnh đạm không một chút xót xa trước sự đói khổ cùng cực của anh chị em đồng loại là người đó đang thiếu trung thực với chúa và với chính mình.

Câu trả lời của chúng ta sẽ như thế nào khi nghe người luật sĩ hỏi chúa giê-su rằng: "Trong các giới răn điều nào trọng nhất?"  Chắc hẳn mỗi người chúng ta sẽ có những câu trả lời khác nhau.  Chắc hẳn chúng ta sẽ nghĩ nhiều đến những luật lệ cấm làm việc này hay buộc làm việc khác.  Chúng ta có lẽ ngạc nhiên khi câu trả lời của chúa Giê-su không phải là những điều cấm và buộc, nhưng là một lời mời gọi yêu thương tâm tình và sâu sắc phát xuất từ đáy long của mỗi người chúng ta. Tôi tin rằng tất cả chúng ta đang tham dự thánh lễ ngày hôm nay, ít hay nhiều chúng ta đều có lòng yêu mến chúa và yêu thương tha nhân.  Tuy nhiên, đôi lúc chúng  ta tự hỏi mình rằng, tôi yêu mến Chúa và yêu tha nhân như vậy đã đủ hay chưa? Và phải yêu như thế nào?
Câu trả lời hết sức quả quyết và rõ ràng từ Môi-sê khi ông nói với dân Israel: “Hỡi Israel, hãy nghe đây, Chúa là Thiên Chúa chúng ta, là Chúa độc nhất. Hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết sức ngươi.” Và Chúa Giê-su tiếp tục mời gọi mỗi người chúng ta hãy yêu mến tha nhân như chính mình.  Ước mong mỗi người trong chúng ta luôn lấy 2 điều răn này làm kim chỉ nam trong hành trình phục vụ Chúa và tha nhân.